Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2014

SỰ PHỤC QUỐC CỦA DÂN DO THÁI: DẤU CHỈ CẢNH BÁO NGÀY TRỞ LẠI CỦA ĐẤNG CỨU THẾ

Lời tiên báo của tiên tri Isaia :
" Ðến ngày đó, Chúa Thượng sẽ lại giơ tay ra một lần nữa,để chuộc lấy phần sống sót của dân Người, phần sống sót ở Át-sua và Ai-cập, ở Pát-rốt và Cút,ở Ê-lam và Sin-a, ở Kha-mát và các hải đảo.Người sẽ phất cờ hiệu cho các dân tộc,và từ bốn phương thiên hạ,sẽ quy tụ những người Ít-ra-en biệt xứ,sẽ tập họp những người Giu-đa bị phân tán.(Is 11,11-12).

Trong lịch sử, người Do Thái đã một lần lưu
lạc và hồi hương vào năm 538 trước CN. Đền thờ tại thành Giê-ru-sa-lem do vua
Hê-rốt xây trong 46 năm, vô cùng tráng lệ,
nhưng Chúa đã tiên báo rằng:
"Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó, phải
không? Thầy bảo thật anh em: tại đây, sẽ không
còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị
phá đổ".(Mt 24,2).
Sự thật đã xảy ra đúng như thế. Vào năm
67 sau CN, người Do Thái nổi dậy tại
Palestine, hoàng đế La Mã lúc đó là Neron
cử đại tướng Vespasian đem quân bao vây
thành Giê-ru-sa-lem, vua Neron băng hà,
sau đó tướng Vespasian được quân đội và
Nghị viên suy tôn, trở về làm vua, để con là
tướng Titus ở lại, thành bị vây trong 143
ngày thì thất thủ, hơn 600 ngàn người Do
Thái bị giết, hàng ngàn người khác bị lưu
đày, quân La Mã đốt thành, thiêu hủy đền
thờ, vàng bọc trong tường đền thờ chảy ra,
từng tảng đá bị cạy lên để tìm vàng, đền thờ
bị san bằng đến nỗi không còn một hòn đá
nào chồng trên một hòn đá nào đúng như
lời Chúa đã báo trước. Kể từ đó nước Do
Thái bị xóa tên, người Do Thái lại lưu lạc
khắp thế giới, "bốn góc đất". Nhưng dù lưu
vong ở nước nào, họ cũng quần tụ lại với
nhau thành những cộng đồng Do Thái chặt
chẽ để bảo tồn văn hóa và tín ngưỡng. Từ
thế kỷ 11, Palestine bị Thổ Nhỉ Kỳ cai trị,
đến TK 14, triều đại Ottoman của Thổ chiếm
hầu hết vùng bán đảo Balkan. Đến đầu TK
19, sau gần 19 thế kỷ, xuất hiện phong trào
Si-ôn chủ trương tìm cách lập một mảnh đất
dung thân tại Palestine cho người Do Thái.
Khi đại tướng Anh là Allenby chiếm được
Palestine trong thế chiến thứ nhất, dẫn đến
một văn kiện do huân tước Balfour soạn
thảo đã ghi như sau:
“ Chính phủ Hoàng Gia ủng hộ việc tạo lập
một lãnh thổ tại Palestine cho người Do Thái
và sẽ dùng mọi nỗ lực để thực hiện mục tiêu
này.”
Sau gần 2 thập niên, dân Do Thái sống tại
Palestine đã tăng nhanh. Năm 1882 trong
624.000 dân Palestine có 24.000 dân Do
Thái, năm 1914 có 85.000, năm 1936 có
404.000 (năm 1948 lập quốc có 650.000
người Do Thái). Năm 1947, Liên Hiệp Quốc
bỏ phiếu (có 33 phiếu thuận, 10 phiếu
chống, 10 phiếu vắng mặt) quyết định kế
hoạch chia đất: Những vùng có dân Do Thái
đông nhất ở Palestine sẽ được chỉ định
thuộc người Do Thái, trong khi những vùng
còn lại là của Jordan. Lập tức người Á Rập
hình thành một kế hoạch tấn công Do Thái
quy mô suốt 6 tháng, đến ngày 14/5/1948
Do Thái toàn thắng tuyên bố độc lập theo
kết quả bỏ phiếu nửa năm trước của Liên
Hiệp Quốc. Người Á Rập vẫn tuyên bố “tống
khứ bọn Do Thái xuống Địa Trung Hải”,
quân Á Rập từ Ai Cập, Jordan, Syria, Li-
băng và Iraq tiến vào Palestine, nhưng bị
đẩy lui và bị mất nhiều phần đất. Sau khi
ngưng chiến, biên giới Do Thái mở rộng
hơn, đến cuộc chiến tranh 6 ngày năm
1967, thì Do Thái đã chiếm được hơn
12.000km2 đất đai, quan trọng nhất là cổ
thành Giê-ru-sa-lem, bức tường than khóc
và cả khu vực đền thờ.
Thật khó tưởng tượng nổi một quốc gia đã bị
xóa tên gần 19 thế kỷ, dân chúng tan lạc
khắp “bốn góc đất” chịu nhiều đau thương
thống khổ (bị Đức quốc Xã sát hại gần 6
triệu người trong các lò sát sinh), vậy mà họ
vẫn tái lập được quốc gia, đúng như lời tiên
tri đã ghi trong Kinh Thánh.
Và đây cũng chính là một trong nhiều dấu
hiệu, điềm báo trước về tận thế và ngày tái
lâm của Chúa Giê-su đã gần kề.

Thật vậy, đây chỉ là một lời tiên tri trong số rất nhiều lời tiên tri báo trước ngày trở lại lần hai của Chúa Giesu. Nhìn vào thế giới chúng ta đang sống với biết bao thảm họa thiên tai động đất, những thảm họa chiến tranh có thể hủy diệt cả nhân loại. Đức Mẹ và Chúa Giêsu liên tục mặc khải cho chúng ta về những biến cố và mời gọi chúng ta ăn năn xám hối trước ngày trọng đại. Quả thật ngày Chúa quang lâm không ai biết trước, nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót Ngài báo trước cho chúng ta các dấu chỉ mà khi nhìn vào đó chúng ta biết được Ngày của Chúa rất gần rồi.

"Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó mềm ra và trổ lá, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy tất cả những điều đó, anh em hãy biết là Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi."(Mt 24,32-33)

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét